Giới thiệu về Đàn Bầu nhạc cụ dân tộc Việt Nam
Đàn Bầu ( còn được gọi là độc huyền cầm) là loại đàn một dây từ xưa của người Việt Nam, thanh âm phát ra dùng que hay miếng gãy vào dây đàn. Dựa theo cấu tạo của hộp đàn, đàn bầu chia làm hai loại đàn là đàn thân gỗ hộp và đàn thân tre.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử để hai chữ “Việt Nam” hiên ngang sánh vai với các cường quốc năm châu. Và cũng từng ấy năm, cây đàn Bầu với những âm hưởng “tích tịch tình tang” du dương, trầm lắng vẫn luôn tồn tại trong huyết mạch dân tộc, lặng lẽ âm thầm thôi nhưng thật vĩ đại, bao la như chính linh hồn của bản sắc văn hóa Việt. Đàn Bầu được ví như một kiệt tác độc nhất, là “tinh cốt” của một dân tộc phi thường.
Trong hệ thống các nhạc cụ Việt Nam, Đàn Bầu hay “Độc huyền cầm” là một nhạc cụ thuần Việt nhất, đặc trưng nhất của dân tộc ta và cũng được coi là một trong số hiếm hoi những cây đàn độc nhất vô nhị trên thế giới bởi cấu trúc, âm thanh cũng như lối diễn tấu của nó không giống bất kỳ một loại nhạc cụ nào.
Nguồn gốc xuất xứ của đàn bầu
Giới nghiên cứu âm nhạc hiện nay chưa tìm ra thời điểm xuất hiện đàn bầu. Lần theo dấu tích lịch sử về nguồn gốc xuất xứ của cây Đàn Bầu, sử liệu cho biết chiếc đàn này có thể đã xuất hiện ở Việt Nam từ hàng ngàn năm. “Đàn Bầu” xuất hiện và biến hóa trong rất nhiều giai thoại tiên cổ, những truyền thuyết kỳ diệu được lưu truyền trong kho tàng văn hóa nhân gian. Theo Tân Đường thư quyển 222, Liệt truyện 147: Nam Man hạ thì trong số các nhạc cụ do nước Phiếu (Phiếu, cổ Chu Ba dã, tự hào Đột La Chu, Đồ Bà quốc nhân viết Đồ Lý Chuyết. Tại Vĩnh Xương nam 2.000 lý, khứ kinh sư 14.000 lý. Đông lục Chân Lạp, tây tiếp Đông Thiên Trúc, tây nam Đọa Hòa La, nam chúc hải, bắc Nam Chiếu. Địa trường 3000 lý, quảng 5000 lý…) dâng lên vua Đường (niên hiệu Trinh Nguyên (785-805) thời Đường Đức Tông) đã thấy xuất hiện độc huyền bào cầm (đàn bầu một dây).
Theo lời kể của cố GS. TS. Trần Văn Khê, nhà nghiên cứu tiền bối Nguyễn Xuân Khoát trong một bài tham luận về đàn bầu tại Bulgary đã kể lại câu chuyện truyền thuyết gắn liền với sự ra đời của cây Đàn Bầu, được tóm lược như sau: “Cây Đàn Bầu trong câu chuyện dân gian là món quà của một bà Tiên ban cho nàng dâu hiếu thảo. Vì chiến tranh mà người con trai tên là Trương Viên phải ra trận, do loạn lạc họ đã cách xa nhau. Để tận hiếu với mẹ già và trọn tình nghĩa phu thê mà nàng dâu đã chịu móc mắt mình để tế hung thần trên đường đưa mẹ về quê lánh nạn. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo sắt son, Tiên trên trời bèn hiện ra và tặng nàng cây đàn một dây. Cây đàn ấy đã cứu sống hai mẹ con nàng qua những tháng ngày cực khổ và cuối cùng giúp gia đình họ được đoàn tụ”.
Bên cạnh đó, trong thư tịch và hiện vật khảo cổ học cũng như lịch sử chữ viết, có một số sách sử quan trọng đã đề cập đến Đàn Bầu. Theo An Nam chí lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Chỉ Nam Ngọc âm giải nghĩa, Đại Nam thực lục tiền biên thì “cây Đàn Bầu ra đời xuất phát điểm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ sau đó được người Kinh Việt Nam mang sang Quảng Tây Trung Quốc. Đàn Bầu được lấy cảm hứng từ trò chơi dân gian “trống đất” của trẻ nhỏ là đào hố và căng dây qua lỗ đất, khi đập nghe tiếng bung bung mà các cụ ngày xưa đã có sự quan sát tinh tế và cảm thụ thanh âm nhanh nhạy nên những tiếng kêu “bung bung” từ dây căng kéo trên lỗ đất ấy đã kết tạo ý tưởng hình thành cây đàn làm từ ống tre và quả bầu khô với một dây duy nhất”.
Từ truyền thuyết xa xưa của dân tộc đến những dấu tích lịch sử ghi lại đều có cùng điểm chung, đó là minh chứng cho sự gắn bó máu huyết của Đàn Bầu với xóm làng, người dân lao động Việt Nam bao đời nay. Đàn Bầu là cây đàn truyền thống của người Việt Nam, đã đồng hành với dân tộc ta qua biết bao thăng trầm và biến động lịch sử, ngấm nhuyễn vào từng âm điệu dân gian, vào từng lời ca “ru hời à ơi” của mẹ, bế bồng tâm hồn mỗi chúng ta hòa vào dòng suối linh thiêng của nguồn cội.
Hình dáng và tính năng của đàn bầu
Đàn bầu thường có hình dạng một ống tròn (bằng tre, bương, luồng) hoặc hình hộp chữ nhật (bằng gỗ); một đầu to, một đầu vuốt nhỏ hơn một chút; thường có chiều dài khoảng 110 cm, đường kính hoặc bề ngang ở đầu to khoảng 12,5 cm, đầu nhỏ khoảng 9,5 cm; cao khoảng 10,5 cm. Ở loại đàn gỗ Mặt đàn và đáy đàn bằng gỗ ngô đồng, hoặc gỗ thông hay gỗ tung. Mặt đàn hơi cong lên một chút, đáy đàn phẳng có một lỗ nhỏ để treo đàn, một hình chữ nhật ở giữa để thoát âm đồng thời cầm đàn khi di chuyển và một khoảng trống để cột dây đàn. Thành đàn bằng gỗ cứng như cẩm lai hoặc mun để cho chắc chắn và có thể bắt vít cho khóa dây đàn.
Trên mặt đầu to có một miếng xương hoặc kim loại nhỏ gọi là ngựa đàn. Qua ngựa đàn, dây đàn được luồn xuống và cột vào trục lên dây đàn xuyên qua thành đàn, trục này được làm đẹp và nó được giấu phía sau thành đàn. Ngày nay người ta dùng khóa dây đàn bằng kim loại cho chắc để chống tuột dây đàn. Trên mặt đầu nhỏ của đàn có một cần dây làm bằng gỗ hoặc sừng, được gọi là cần đàn hoặc vòi đàn. Cần đàn xuyên qua nửa đầu trái bầu khô hoặc tiện bằng gỗ theo hình dạng tương tự và cắm vào một lỗ trên mặt đầu nhỏ của vỏ đàn. Một đầu dây đàn buộc cố định vào cần đàn khoảng giữa bầu đàn.
Que gảy đàn: thường được vót bằng tre, giang, thân dừa, gỗ mềm… Người ta hay làm bông hoặc tưa đầu nhọn một chút để làm mềm âm thanh khi gảy. Ngày xưa hay dùng que dài khoảng 10 cm, ngày nay với nhiều kỹ thuật diễn tấu nhanh nên người ta hay dùng que ngắn chừng 4-4,5 cm.
Đàn bầu phù hợp với những giai điệu trữ tình, êm dịu, tuy nhiên những nghệ nhân xẩm có thể sử dụng nó để diễn những bài hát vui như xẩm xoan hoặc những ca khúc mới, giàu chất tươi tắn và khỏe mạnh. Ca dao Việt Nam có câu “Đàn bầu ai gãy nấy nghe, làm thân con gái chớ nghe đàn bầu” ý nói tiếng đàn dễ dàng thu hút được tình cảm người nghe.
Trước đây đàn bầu thường được độc tấu hoặc đệm hát, tham gia cùng những dàn nhạc cổ truyền cùng với một số loại đàn khác nhưng đến ngày nay một số cây được gắn thiết bị điện, tăng âm nên có thể độc tấu ngoài trời hoặc hòa tấu với dàn nhạc lớn, nhiều nhạc cụ.
Nhiều nghệ nhân nổi tiếng đã dùng tiếng đàn bầu diễn tả lại giọng nói của cả ba miền Nam, miền Trung, miền Bắc và giọng nam, giọng nữ hoặc ngân nga như ngâm…
Một số tính năng của Đàn Bầu
Nhìn chung, Đàn Bầu có âm vực rộng tới 3 quãng tám. Đẹp nhất là âm thanh phát ra trong vòng 2 quãng tám. Nếu người nghệ sĩ kết hợp các kỹ thuật chơi đàn điêu luyện như sử dụng âm thực với sự tác động kéo căng hay giảm dây của cần đàn (vòi đàn) thì âm vực của Đàn Bầu có thể vượt trên 3 quãng tám. Điểm đặc biệt nhất của Đàn Bầu so với những cây đàn khác là việc sử dụng “âm bồi” trong diễn tấu tác phẩm. Vì vậy mà âm sắc của Đàn Bầu vang lên vô cùng mượt mà, trong trẻo, sâu lắng và quyến rũ, rất gần với âm điệu, tiếng nói của con người nên dễ dàng chuyển tải được những tâm tư, tình cảm mà người dân lao động Việt Nam xưa kia muốn nói. Chính vì lẽ đó mà tiếng Đàn Bầu cất lên chính là tiếng lòng, vừa mang ý nghĩa nhân văn, vừa mang nỗi khổ “sinh – lão – bệnh – tử” thời cuộc phong kiến nhiều thị phi. Bằng việc sử dụng các kỹ thuật chơi đàn như: kỹ thuật gảy bồi âm, kỹ thuật nhấn, luyến, vỗ, vuốt, láy, rung, dật,… người nghệ sĩ đã tái hiện nên rất nhiều cung bậc cảm xúc phong phú. Tiếng đàn có khi buồn bã, thiết tha; có khi ngọt ngào tình tự; có khi êm dịu, trữ tình nhưng cũng có lúc khỏe mạnh, tươi vui.
Những nét sáng tạo độc đáo của đàn bầu
Trên thế giới có vô vàn những loại nhạc cụ khác nhau. Ngay cả các nhạc cụ thuộc bộ dây cùng với Đàn Bầu cũng vô cùng phong phú. Tuy nhiên, điều gì khiến cho Đàn Bầu trở thành độc nhất vô nhị với sức quyến rũ không thể cưỡng lại?
Đàn Bầu Việt Nam, nếu chỉ có nét lạ cổ sơ là một dây, có cái bầu đàn là vỏ bầu khô, hộp đàn bằng tre, nứa, vầu, bương hay gỗ; gảy bằng ngón tay, móng hay que gảy, phát ra âm thanh do va chạm trực tiếp, 1 lần, tức là “âm thực”, thì dẫu có cách tân, hoàn thiện đến mấy về cấu tạo cũng chẳng bao giờ được coi là nhạc cụ độc đáo, kỳ diệu, tiêu biểu Việt Nam như thế giới đã ghi nhận. Đàn Bầu Việt Nam đặc sắc chính là do một sáng tạo, một phát hiện, có thể nói ở mức phát kiến của tổ tiên người Việt, ấy là cách gảy đàn tạo ra “âm bồi”, tức là dây rung do que gảy ngay tức thì chạm lần nữa vào cườm bàn tay hoặc cạnh ngón tay, để phát ra thứ âm thanh kỳ lạ và mê hoặc không nhạc cụ nào trên đời hơn được. Nếu như cao độ của những nốt nhạc phát ra từ đàn Phương Tây như piano hay organ luôn xác định, thì âm thanh Đàn Bầu lại đọng lại giữa những khoảng cao độ đó. Tiếng Đàn Bầu vì thế không còn là tiếng ngân rung của âm thực, với âm sắc dễ nhận ra của dây tơ, dây thép mà đã biến ảo, để rất gần với giọng nói con người. Nó là giọng hát của người đã được mượt hóa và ngọt hóa, để ngân lên các cung bậc sâu thẳm và phong phú vô cùng tận của tâm hồn người, nhưng lại ẩn đi phần ngữ nghĩa của lời ca, vì thế càng đa nghĩa và thâm sâu tuyệt đỉnh.
Discussion about this post